Sắt là một thành phần thiết yếu của cơ thể cần thiết cho sự tạo thành hemoglobin và cho các tiến trình trong các mô sống cần có oxy. Sử dụng sắt sẽ giúp khắc phục những bất thường trong sự tạo hồng cầu do thiếu sắt.
Vitamin B12 khi vào cơ thể tạo thành các coenzyme hoạt động là methylcobalamin và 5-deoxyadenosylcobalamin rất cần thiết cho tế bào sao chép và tăng trưởng. Methylcobalamin rất cần để tạo methionine và dẫn chất là S-adenosylmethionin từ homocystein. Khi nồng độ vitamin B12 không đủ sẽ gây ra suy giảm chức năng của một số dạng acid folic cần thiết ở trong tế bào. Vitamin B12 rất cần thiết cho tất cả các mô có tốc độ tăng trưởng tế bào mạnh như các mô tạo máu, ruột non, tử cung. Thiếu vitamin B12 cũng gây hủy myelin sợi thần kinh.
Acid folic cần thiết cho sự tổng hợp nucleoprotein và duy trì sự tạo hồng cầu bình thường, thiếu acid folic gây ra thiếu máu nguyên hồng cầu khổng lồ như thiếu máu do thiếu vitamin B12.
Vitamin B1 khi vào cơ thể chuyển thành thiamin phosphate là dạng có hoạt tính là coenzyme chuyển hóa việc sử dụng pentose trong chu trình hexose monophosphate. Khi thiếu thụt vitamin B1, sự oxy hóa các alpha-cetoacid bị ảnh hưởng, làm cho nồng độ pyruvate tăng lên, giúp chẩn đoán tình trạng thiếu vitamin.
Vitamin B2 tham gia vào các quá trình chuyển hoa lipid, purin, acid amin. Vitamin B2 còn đóng vai trò quan trọng trong giáng hóa nhiều chất trong cơ thể.
Vitamin B6 khi vào cơ thể biến đổi thành pyridoxine phosphate và một thành phần pyridoxamin phosphate. Hai chất này hoạt động như những coenzym trong chuyển hóa protein, glucid và lipid. Pyridoxin tham gia tổng hợp acid gamma – aminobutyric (GABA) trong hệ thần kinh trung ương và tham gia tổng hợp hemoglobulin.
Sắt: được hấp thu không đều đặn và không hoàn toàn từ hệ tiêu hóa, vị trí hấp thu chủ yếu ở tá tràng và hổng tràng. Sự hấp thu được hỗ trợ bởi dịch tiết acid dạ dày hoặc các acid trong thức ăn và dễ dàng tác động hơn khi sắt ở dạng sắt II. Sự hấp thu cũng tăng lên khi có tình trạng thiếu hụt sắt hoặc trong điều kiện ăn kiêng nhưng lại giảm xuống nếu dự trữ của cơ thể đã quá thừa.
Sắt II qua niêm mạc tiêu hóa đi thẳng vào máu và ngay lập tức kết hợp với transferrin. Transferrin vận chuyển sắt đến tủy xương để kết hợp thành hemoglobin.
Hầu hết sắt được phóng thích do sự phá hủy hemoglobin được cơ thể giữ lại và tái sử dụng. Sự bài tiết của sắt chủ yếu qua sự bong tróc của tế bào như da, màng nhày tiêu hóa, móng và tóc; chỉ có một lượng sắt rất ít được bài tiết qua mật và mồ hôi.
Acid folic: được hấp thu chủ yếu ở đoạn đầu ruột non và phân bố ở các mô trong cơ thể. Acid folic được tích trữ chủ yếu ở gan và được tập trung tích cực trong dịch não tủy. Mỗi 4-5mg đào thải qua nước tiểu. Uống acid folic liều cao làm lượng vitamin đào thải qua nước tiểu tăng lên theo tỉ lệ thuận. Acid folic đi qua nhau thai và có ở trong sữa mẹ.
Vitamin PP: hấp thu nhanh qua đường tiêu hóa sau khi uống và phân bố rộng khắp cơ thể. Thời gian bán hủy của thuốc khoảng 45 phút. Vitamin PP chuyển hóa ở gan thành N-methylnicotinamid, các dẫn chất 2-pyridon và 4-pyridon, và còn tạo thành nicotinuric. Sau khi dùng vitamin PP với liều thông thường, chỉ có một lượng nhỏ bài tiết vào nước tiểu ở dạng không thay đổi; tuy nhiên khi dùng liều lớn thì lượng thuốc bài tiết dưới dạng không thay đổi sẽ tăng lên.
Vitamin B1: Sự hấp thu vitamin B1 trong ăn uống hàng ngày qua đường tiêu hóa là do sự vẩn chuyển tích cực phụ thuộc Na+. Khi nồng độ vitamin B1 trong đường tiêu hóa cao, sự khuếch tán thụ động cũng quan trọng. Tuy vậy, hấp thu liều cao bị hạn chế. Khi hấp thu vượt quá nhu cầu tối thiểu, các kho chứa vitamin B1 ở các mô đầu tiên được bão hòa. Sau đó lượng thừa sẽ thải trừ qua nước tiểu dưới dạng phân tử vitamin B1 nguyên vẹn. Khi hấp thu vitamin B1 tăng lên hơn nữa, thải trừ dưới dạng vitamin B1 chưa biến hóa sẽ tăng hơn.
Vitamin B2: được hấp thu chủ yếu ở tá tràng. Các chất chuyển hóa của vitamin B2 được phân bổ khắp các mô của cơ thể và vào sữa mẹ. Một lượng nhỏ được dự trữ ở gan, lách, thận, tim.
Chỉ định: bổ sung sắt cho phụ nữ có thai và các chứng thiếu máu do thiếu sắt, vitamin B12 và acid folic
Bệnh nhân dự ứng với bất cứ thành phần nào của thuốc
U ác tính: do vitamin B12 làm tăng trưởng các mô có tốc độ sinh trưởng cao, nên có nguy cơ làm u tiến triển.