Hiện nay, cơ chế tác dụng chính xác của Tacrolimus đối với chàm thể tạng chưa được xác định.
Tacrolimus là chất điều hòa miễn dịch tại chổ, tacrolimus cho thấy có ức chế calcineurin và tiếp đó là đường truyền phụ thuộc canxi trên việc sao chép và tổng hợp các cytokine như Interleukin (IL-2, IL-3, IL-4, IL-5 và các phân bào như GM-CSF, TNF-α và IFN-γ), những chất tham gia vào giai đoạn sớm của quá trình hoạt hoá tế bào T. Ý nghĩa lâm sàng của các tác động này ở chàm thể tạng chưa được biết.
Kết quả từ các nghiên cứu lâm sàng trên bệnh nhân
5 nghiên cứu so sánh đa trung tâm, ngẫu nhiên, mù đôi, có nhóm chứng ở pha III đã được tiến hành trên bệnh nhân chàm thể tạng: 3 nghiên cứu ở người lớn (1 nghiên cứu ở Châu Âu và 2 nghiên cứu ở Mỹ) và 2 nghiên cứu ở trẻ em (1 nghiên cứu ở châu Âu và 1 nghiên cứu ở Mỹ).
Nghiên cứu ở châu Âu
Theo tài liệu tham khảo từ châu Âu ở các nghiên cứu có kiểm soát, tiêu chí đánh giá chính về hiệu quả là MEASI AUC (diện tích dưới đường cong nồng độ của chỉ số về sự thay đổi độ nghiêm trọng và diện tích da bị chàm) ở thời điểm đầu tiên và giá trị trung bình trong quá trình điều trị. Các nghiên cứu này cho thấy hiệu quả của thuốc mỡ tacrolimus 0,1% tương đương với hiệu lực của corticosteroid 0,1% mỡ hydrocortisone butyrate và tốt hơn thuốc mỡ tacrolimus 0,03%, và thuốc mỡ tacrolimus 0,03% có hiệu quả hơn hydrocortisone acetate 1%. Một nghiên cứu khác cho thấy việc sử dụng lâu dài có ngắt quãng thuốc mỡ tacrolimus có thể đảo ngược hiện tượng teo da do corticosteroid sử dụng tại chỗ gây nên.
Các nghiên cứu ở Mỹ
3 nghiên cứu ở Mỹ là nghiên cứu giả dược có kiểm soát, và tiêu chí đánh giá chính về hiệu quả là tỷ lệ điều trị thành công (≥90% có dấu hiệu cải thiện) tại thời điểm cuối cùng sau 12 tuần điều trị. Tất cả 3 nghiên cứu ở Mỹ cho thấy cả 2 hàm lượng thuốc mỡ tacrolimus 0,03% và 0,1% đều cho hiệu quả cao hơn so với giả dược (P≤0,001).
Những phát hiện từ 2 nghiên cứu thuốc đối chứng có kiểm soát và 3 nghiên cứu giả dược có kiểm soát đều thống nhất và chỉ ra rằng cả hai hàm lượng thuốc mỡ tacrolimus 0,03% và 0,1% hiệu quả trong điều trị chàm thể tạng ở bệnh nhân người lớn và trẻ em.
Hấp thu
Hầu hết những bệnh nhân chàm thể tạng (người lớn và trẻ em) được điều trị bằng thuốc mỡ tacrolimus khi dùng liều đơn hoặc liều lặp lại (0,03 – 0,1%) đều có nồng độ trong máu < 2 ng/ml.
Dữ liệu an toàn tiền lâm sàng
Khả năng gây đột biến
Các xét nghiệm cả trong in vitro và in vivo không chỉ ranguy cơ gây độc tính gen của tacrolimus.
Khả năng gây ung thư
Trong một nghiên cứu 24 tháng về khả năng gây ung thư da của thuốc mỡ tacrolimus với liều đến 0,1% không thấy có xuất hiện các khối u ở da, tuy nhiên, khi có sự phơi nhiễm hệ thống ở nồng độ cao hơn sẽ có nguy cơ gây tăng tỉ lệ u bạch huyết (lymphoma).
Trong nghiên cứu 52 tuần về khả năng gây ung thư do tiếp xúc với ánh sáng, thời gian trung bình khởi phát u da giảm đi ở chuột bạch tạng không có lông sau khi điều trị tại chỗ kéo dài với thuốc mỡ tacrolimus ≥ 0,1% đồng thời phơi nhiễm với bức xạ tia tử ngoại (UV) (điều trị 40 tuần và sau đó theo dõi tiếp 12 tuần).
Độc tính trên khả năng sinh sản
Chưa tiến hành các nghiên cứu về độc tính trên khả năng sinh sản khi dung tacrolimus bôi tại chỗ. Trong các nghiên cứu của tacrolimus dạng uống, độc tính trên thai/phôi thai được ghi nhận trên thỏ và chuột, nhưng chỉ ở liều gây độc tính rõ rệt trên động vật đang mang thai.
Tacrolimus là thuốc mới điều trị chàm thể tạng (viêm da thể tạng).
Nên dung thuốc mỡ tacrolimus cho những bệnh nhân không đáp ứng hoặc không dung nạp với các điều trị thông thường.
- Quá mẫn với bất cứ thành phần nào của thuốc.
- Trẻ em dưới 2 tuổi.
Bệnh nhân bị chàm thể tạng thường dễ bị mắc các bệnh nhiễm trùng da. Nếu có sự hiện diện của một nhiễm trùng da trên lâm sàng, nên cân nhắc nguy cơ và lợi ích của việc sử dụng thuốc mỡ tacrolimus.
Mặc dù chưa thiết lập được mối quan hệ nhân quả, một số hiếm các trường hợp có thể gặp bệnh lý ác tính bao gồm các bệnh lý ác tính của da và bạch huyết đã được báo cáo ở bệnh nhân dùng thuốc mỡ tacrolimus. Trong thời gian sử dụng thuốc mỡ tacrolimus, nên hạn chế sự tiếp xúc của da với ánh sáng tự nhiên hoặc ánh sáng nhân tạo.Thuốc mỡ tacrolimus được dùng trên da mà không bị hút bởi quần áo.
Không nên sử dụng thuốc mỡ tacrolimus cho vùng da bị tổn thương vì nơi đó có khả năng làm tăng hấp thu tacrolimus vào hệ thống. Ví dụ: hội chứng Netherton, bệnh vảy cá, chứng đỏ da toàn thân hoặc bệnh thải ghép (Graft Versus Host) da. Không dùng bôi ở vùng miệng. Đã có báo cáo về sự gia tăng nồng độ thuốc trong máu sau khi dùng thuốc mỡ tacrolimus cho những trường hợp nêu trên trong những nghiên cứu hậu mãi.
Nếu không có dấu hiệu, các triệu chứng của chàm thể tạng không được cải thiện, nên cân nhắc các phác đồ điều trị tiếp tục. Chưa thiết lập độ an toàn và hiệu quả của thuốc mỡ tacrolimus dùng tại chỗ ở trẻ em dưới 2 tuổi.
Các phản ứng phụ dưới đây (thuật ngữ quy kết * hoặc tương đương) sẽ được xem xét liệt kê:
Các rối loạn chung và tình trạng tại vị trí dùng thuốc: |
Viêm da tại vị trí dùng thuốc Ban đỏ tại vị trí dùng thuốc Kích ứng tại vị trí dùng thuốc Phù nề tại vị trí dùng thuốc* Đau tại vị trí dùng thuốc Dị cảm tại vị trí dùng thuốc Ngứa tại vị trí dùng thuốc Phản ứng tại vị trí dùng thuốc Nóng tại vị trí dùng thuốc |
Nhiễm vi khuẩn và ký sinh trùng: |
Nhiễm trùng da bất kể nguyên nhân cụ thể nào nhưng không bị giới hạn bởi chàm bội nhiễm herpes, viêm nang lông, herpes simplex [herpes môi], nhiễm virus Herpes, ban mụn nước dạng thuỷ đậu Kaposi *. |
Đang nghiên cứu thêm: |
Tăng mức độ hấp thu thuốc * (xem phần lưu ý đăc biệt và cảnh báo khi sử dụng thuốc) |
Rối loạn chuyển hoá và dinh dưỡng: |
Không dung nạp cồn |
Rối loạn hệ thống thần kinh: |
Cảm giác rát bỏng Tăng cảm giác |
Rối loạn tổ chức da và dưới da: |
Mụn trứng cá* Ngứa Rosacea* |
Những phản ứng ngoại ý được liệt kê ở trên đã đượctheo dõi trong suốt quá trình làm thử nghiệm lâm sàng và sau khi được sử dụng trên thị trường (*: ghi nhận sau khi sử dụng trên thị trường, # thuật ngữ quy định trong MedDRA.
Bôi một đến hai lần mỗi ngày tại các vùng da bị tổn thương. Có thể dùng thuốc mỡ tacrolimus ở bất kỳ vùng nào của cơ thể, kể cả mặt, cổ và những vùng da có nếp nhăn trừ niêm mạc. Cần điều trị liên tục cho đến khi các dấu hiệu hoặc triệu chứng bệnh biến mất. Mỗi đợt điều trị liên tục không quá 6 tuần, thời gian ngắt quảng giữa hai đợt điều trị là 2 tuần. Nếu không thấy triệu chứng cải thiện sau 6 tuần điều trị, cần phải khám lại để xác định chẩn đoán.
Dùng thuốc ở trẻ em (từ 2 tuổi trở lên)
Trẻ em từ 2 đến 15 tuổi chỉ dùng thuốc mỡ tacrolimus 0,03%.
Dùng thuốc ở người lớn (từ 16 tuổi trở lên)
Người lớn dùng thuốc mỡ tacrolimus 0,03% hoặc 0,1%.
Không khuyến cáo dùng thuốc mỡ tacrolimus 0,1% cho trẻ em dưới 16 tuổi.
Không khuyến cáo dùng thuốc mỡ tacrolimus cho trẻ dưới 2 tuổi.
Không khuyến cáo dùng thuốc mỡ tacrolimus dài hạn.