Tìm theo
Fraizeron
Thuốc điều trị bệnh da liễu
Biệt Dược
NSX : Novartis Pharma - Belgium
Nồng độ : Secukinumab 150mg
Đóng gói : Bột đông khô pha tiêm: hộp 1 lọ.
Thành Phần Hoạt Chất (1) :
Dược Lực Học : Secukinumab là một kháng thể đơn dòng tái tổ hợp chọn lọc cho interleukin-17A. Secukinumab là IgG1/lớp k, do tế bào buồng trứng của giống chuột lang Trung Quốc tiết ra.
Nhóm thuốc điều trị: chất ức chế miễn dịch, ức chế interleukin, mã ATC: L04AC10.
Cơ chế hoạt động: Secukinumab là kháng thể đơn dòng IgG1/k hoàn toàn người, gắn chọn lọc và làm trung hòa cytokine tiền viêm interleukin-17A (IL-17A). Secukinumab hoạt động nhắm vào IL-17A và ức chế tác động của IL-17A với receptor IL-17 (receptor bộc lộ ở một số loại tế bào khác nhau trong đó có tế bào sừng). Từ đó, Secukinumab ức chế sự giải phóng các cytokine tiền viêm, chemokine và các chất trung gian của các mô bị tổn thương, làm giảm sự tham gia qua trung gian IL-17A trong các bệnh tự miễn và viêm. Một lượng Secukinumab phù hợp về lâm sàng đi đến da và làm giảm các marker viêm tại chỗ. Secukinumab làm giảm các dát đỏ, giảm thâm nhiễm và bong vảy ở các tổn thương vẩy nến mảng là kết quả trực tiếp của điều trị.
IL-17A là một cytokine tự nhiên có tác động lên đáp ứng viêm và miễn dịch bình thường. IL-17A đóng vai trò chủ chốt trong sinh bệnh học của vảy nến thể mảng và được điều chỉnh tăng lên trên da có thương tổn so với vùng da thường.
Tác động về dược lực học: Ở những bệnh nhân điều trị bằng Secukinumab, nồng độ IL-17A toàn phần trong huyết thanh (IL-17A tự do và IL-17A gắn Secukinumab) ban đầu tăng. Sau đó giảm chậm do giảm sự thanh thải IL-17A gắn Secukinumab, điều này cho thấy Secukinumab bắt giữ có chọn lọc các IL-17A tự do đóng vai trò chủ chốt trong sinh bệnh học của vảy nến thể mảng.
Trong một nghiên cứu về Secukinumab, có hiện tượng tăng sự xâm nhập vào thượng bì các bạch cầu đa nhân trung tính và một số các marker liên quan bạch cầu đa nhân trung tính ở tổn thương da của bệnh nhân vảy nến thể mảng, nhưng sau một đến hai tuần điều trị thì giảm rõ rệt.
Hiệu quả lâm sàng và tính an toàn: Tính an toàn và hiệu quả lâm sàng của Fraizeron được đánh giá trong 4 nghiên cứu pha III, ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng giả dược ở các bệnh nhân vảy nến thể mảng mức độ trung bình đến nặng có chỉ định quang trị liệu hoặc điều trị toàn thân (ERASURE, FIXTURE, FEATURE, JUNCTURE). Hiệu quả và tính an toàn của Fraizeron 150mg và 300mg được đánh giá so sánh hoặc với giả dược hoặc với Etanercept. Hơn nữa, một nghiên cứu đánh giá phác đồ điều trị kéo dài so với phác đồ “điều trị lại khi cần” (SCULPTURE) cũng đã được thực hiện.
Trong 2.403 bệnh nhân đã được đưa vào nghiên cứu đối chứng giả dược, 79% chưa được điều trị các chất sinh học, 45% thất bại với các thuốc không thuộc nhóm sinh học và 8% thất bại với điều trị bằng các chất sinh học (6% thất bại với kháng TNF và 2% thất bại với kháng p40). Khoảng 15-25% bệnh nhân trong các nghiên cứu pha III đã bị viêm khớp vảy nến ngay thời điểm bắt đầu tham gia nghiên cứu.
Nghiên cứu thứ nhất trên bệnh vảy nến (ERASURE) đánh giá 738 bệnh nhân. Các bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên, điều trị với Fraizeron liều 150mg hoặc 300mg ở tuần 0, 1, 2 và 3, sau đó dùng cùng một liều hằng tháng kể từ tuần thứ 4. Nghiên cứu thứ 2 trên bệnh vảy nến (FIXTURE) gồm 1.306 bệnh nhân. Các bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên, điều trị với liều 150mg hoặc 300mg ở tuần 0, 1, 2 và 3, sau đó dùng cùng một liều hằng tháng từ tuần thứ 4. Bệnh nhân được lựa chọn ngẫu nhiên điều trị bằng Etanercept với liều 50mg hai lần mỗi tuần trong 12 tuần, sau đó là 50mg mỗi tuần. Trong cả nghiên cứu 1 và 2, bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên điều trị bằng giả dược nếu không đáp ứng ở tuần điều trị thứ 12 sẽ được chuyển sang điều trị bằng Fraizeron (150mg hoặc 300mg) ở các tuần 12, 13, 14 và 15, sau đó dùng cùng một liều hằng tháng từ tuần 16. Tất cả các bệnh nhân đều được theo dõi đến 52 tuần sau lần điều trị đầu tiên của nghiên cứu.
Nghiên cứu thứ 3 (FEATURE) trên 177 bệnh nhân sử dụng bơm tiêm nạp sẵn thuốc so với giả dược sau 12 tuần điều trị, đánh giá tính an toàn, mức độ dung nạp được thuốc và tính tiện lợi của việc tự tiêm thuốc Fraizeron bằng bơm tiêm nạp sẵn. Nghiên cứu thứ 4 trên 182 bệnh nhân vảy nến (JUNCTURE) dùng bơm tiêm nạp sẵn so với giả dược sau 12 tuần điều trị, đánh giá tính an toàn, mức độ dung nạp được thuốc, tính tiện lợi của việc tự sử dụng Fraizeron bơm tiêm nạp sẵn. Trong cả nghiên cứu 3 và 4, bệnh nhân được xếp ngẫu nhiên điều trị Fraizeron với liều 150mg hoặc 300mg ở các tuần 0, 1, 2 và 3, sau đó dùng cùng liều mỗi tháng từ tuần thứ 4. Các bệnh nhân cũng được xếp ngẫu nhiên để điều trị bằng giả dược ở tuần 0, 1, 2 và 3, sau đó dùng cùng liều mỗi tháng từ tuần thứ 4.
Nghiên cứu thứ 5 trên 966 bệnh nhân vảy nến (SCULPTURE). Tất cả bệnh nhân điều trị bằng Fraizeron với liều 150 đến 300 mg ở các tuần 0, 1, 2, 3, 4, 8 và 12, sau đó được xếp ngẫu nhiên để điều trị theo phác đồ duy trì cùng liều hằng tháng hoặc theo phác đồ điều trị lại khi cần thiết. Những bệnh nhân được điều trị ngẫu nhiên theo phác đồ “dùng thuốc lại khi cần” đã không đạt được đáp ứng ổn định, do đó phác đồ duy trì liều cố định hằng tháng được khuyến cáo sử dụng.
Các đồng tiêu chí nghiên cứu của các nghiên cứu có đối chứng giả dược và đối chứng với hoạt chất là tỷ lệ các bệnh nhân đạt được đáp ứng PASI 75 và đáp ứng IGA mod 2011 “sạch” hoặc “hầu như sạch” so với giả dược ở tuần thứ 12 (xem bảng 1 và 2). Liều 300mg đem lại kết quả sạch tổn thương da tốt hơn, đặc biệt ở mức độ “sạch” hoặc “hầu như sạch” thông qua các thời điểm đánh giá hiệu quả về đáp ứng PASI 90, PASI 100 và đáp ứng IGA mod 2011 0 hoặc 1 trong tất cả các nghiên cứu với hiệu quả cao nhất thấy được ở tuần thứ 16. Vì vậy, đây là liều dùng được khuyến cáo. (xem bảng 1 & bảng 2).



Image from Drug Label Content


Image from Drug Label Content

Fraizeron có hiệu quả ở những bệnh nhân chưa được điều trị gì, chưa được điều trị các thuốc sinh học, đã từng điều trị bằng thuốc sinh học/kháng TNF và bệnh nhân thất bại với thuốc sinh học/kháng TNF. Sự cải thiện PASI 75 ở những bệnh nhân bị đồng thời viêm khớp vẩy nến là tương đương với những bệnh nhân vảy nến thể mảng nói chung.
Fraizeron đạt hiệu quả nhanh, giảm 50% điểm PASI trung bình trong 3 tuần với liều 300mg. (xem hình 1)

Image from Drug Label Content

Kết quả Chất lượng cuộc sống/kết quả do bệnh nhân ghi nhận: Những cải thiện so với ban đầu ở tuần thứ 12 (nghiên cứu 1-4) so với nhóm dùng giả dược có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, qua điểm đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân da liễu (DLQI - Dermatology Life Quality Index). Số điểm DLQI giảm (sự cải thiện) trung bình so với ban đầu trong khoảng từ -10,4 đến -11,6 với liều Secukinumab 300mg, từ -7,7 đến -10,1 với liều Secukinumab 150mg, so với -1,1 đến -1,9 khi dùng giả dược, ở tuần thứ 12. Sự cải thiện này được duy trì trong 52 tuần (nghiên cứu 1 và 2).
Bốn mươi phần trăm những người tham gia nghiên cứu 1 và 2 hoàn thành đầy đủ sổ nhật ký điều trị. Trong nhóm bệnh nhân hoàn thành nhật ký điều trị của mỗi nghiên cứu nói trên, sự cải thiện đáng kể có ý nghĩa thống kê ở tuần 12 so với ban đầu về các dấu hiệu và triệu chứng ngứa, đau, bong vảy do bệnh nhân tự ghi nhận đã được chứng minh.
Nhóm bệnh nhân trẻ em: Cơ quan Quản lý Dược phẩm châu Âu (EMA) đã miễn việc bắt buộc nộp những kết quả nghiên cứu Fraizeron ở bệnh nhân trẻ em bị vảy nến thể mảng, tuổi từ sơ sinh đến dưới 6 tuổi (xem mục Liều lượng và Cách dùng để biết thông tin dùng thuốc ở trẻ em).
Cục Dược phẩm châu Âu cũng đã hoãn việc nộp những kết quả nghiên cứu Fraizeron ở bệnh nhân trẻ em bị vảy nến thể mảng, tuổi từ 6 đến dưới 18 (xem mục Liều lượng và Cách dùng để biết thông tin dùng thuốc ở trẻ em).
Dược Động Học :
Hấp thu: Theo sau một liều đơn 300mg tiêm dưới da dung dịch thuốc ở những người tình nguyện khỏe mạnh, Secukinumab đạt nồng độ đỉnh trong huyết thanh là 43,2±10,4 μg/ml giữa 2 và 14 ngày sau liều tiêm.
Dựa trên phân tích về dược động học, sau khi tiêm dưới da cho bệnh nhân vảy nến thể mảng một liều đơn 150mg hoặc 300mg, Secukinumab đạt nồng độ đỉnh trong huyết tương lần lượt là 13,7±4,8 μg/ml hoặc 27,3±9,5 μg/ml, giữa 5 và 6 ngày sau liều tiêm.
Sau khi tiêm liều hằng tuần khởi đầu trong tháng đầu tiên, thời gian để đạt nồng độ tối đa theo phân tích dược động học quần thể là trong khoảng 31-34 ngày.
Trên cơ sở các số liệu sẵn có, nồng độ đỉnh ở trạng thái bền vững (Cmax, ss) sau khi tiêm dưới da liều 150mg là 27,6 μg/ml hoặc liều 300mg là 55,2 μg/ml. Phân tích dược động học quần thể gợi ý rằng nồng độ bền vững đạt được sau 20 tuần với phác đồ liều hằng tháng.
Phân tích quần thể về dược động học cũng chỉ ra rằng, so với sau khi tiêm một liều đơn, bệnh nhân được điều trị dùng liều duy trì lặp lại hằng tháng có nồng độ đỉnh và diện tích dưới đường cong (AUC - area under the curve) tăng gấp 2 lần.
Phân tích quần thể về dược động học cho thấy Secukinumab được hấp thu với sinh khả dụng tuyệt đối 73% ở bệnh nhân vảy nến thể mảng. Các nghiên cứu cho thấy sinh khả dụng tuyệt đối dao động trong khoảng giữa 60 và 77%.
Phân bố: Thể tích phân bố trung bình trong pha cuối (Vz) theo sau tiêm tĩnh mạch một liều đơn phân bố trong khoảng từ 7,1 đến 8,6 lít ở các bệnh nhân vảy nến thể mảng, điều này cho thấy Secukinumab chịu phân bố giới hạn ra các khoang ngoại biên.
Chuyển dạng sinh học: Phần lớn sự bài tiết của IgG xảy ra thông qua quá trình dị hóa nội bào, sau giai đoạn dịch hoặc sự tiêu hóa nội bào qua trung gian thụ thể.
Bài tiết: Độ thanh thải toàn thân trung bình theo sau một liều đơn tiêm tĩnh mạch ở bệnh nhân vảy nến thể mảng dao động từ 0,13 đến 0,36 l/ngày. Khi phân tích dược động học quần thể thì thấy độ thanh thải toàn thân trung bình là 0,19 l/ngày ở bệnh nhân vảy nến thể mảng. Giới tính không ảnh hưởng đến độ thanh thải. Độ thanh thải cũng không phụ thuộc vào liều và thời gian.
Thời gian bán hủy trung bình đo bằng phân tích dược động học quần thể là 27 ngày ở bệnh nhân vảy nến thể mảng, dao động từ 18 đến 46 ngày qua các nghiên cứu vảy nến với đường tiêm tĩnh mạch.
Tuyến tính/phi tuyến tính: Dược động học Secukinumab đơn liều và đa liều ở bệnh nhân vảy nến thể mảng đã được xác định trong nhiều nghiên cứu với liều tĩnh mạch từ 1x0,3mg/kg đến 3x10mg/kg và liều tiêm dưới da từ 1x25mg đến đa liều 300mg. Trong tất cả các phác đồ liều, nồng độ tiếp xúc thuốc là tương ứng theo liều.
Bệnh nhân lớn tuổi: Trong 3.430 bệnh nhân vảy nến thể mảng được điều trị bằng Fraizeron trong các nghiên cứu lâm sàng, có tất cả 230 bệnh nhân từ 65 tuổi trở lên và 32 bệnh nhân từ 75 tuổi trở lên. Dựa trên phân tích dược động học quần thể trên một số lượng giới hạn bệnh nhân lớn tuổi (n=71 đối với bệnh nhân ≥65 tuổi và n=7 đối với bệnh nhân ≥75 tuổi), độ thanh thải ở những bệnh nhân lớn tuổi và bệnh nhân dưới 65 tuổi là tương đương nhau.
Bệnh nhân suy chức năng gan/thận: Không có dữ liệu về dược động học ở những bệnh nhân có suy chức năng gan hoặc suy chức năng thận. Sự bài tiết qua thận của Fraizeron nguyên trạng, một kháng thể IgG đơn dòng, được nghĩ là thấp và ít quan trọng. Các IgG chủ yếu được bài tiết qua con đường dị hóa và suy chức năng gan không bị cho là làm ảnh hưởng lên sự thanh thải của Fraizeron.
Chỉ Định : Vảy nến thể mảng mức độ trung bình đến nặng ở người lớn có chỉ định điều trị đường toàn thân hoặc quang liệu pháp.
Chống Chỉ Định : Phản ứng quá mẫn nặng với thành phần thuốc. Nhiễm trùng quan trọng, có biểu hiện trên lâm sàng (như lao giai đoạn hoạt động).
Tương Tác Thuốc : Vắc xin sống không được dùng đồng thời với Fraizeron (xem thêm mục Cảnh báo).
Chưa có nghiên cứu về sự tương tác được tiến hành trên người. Không có bằng chứng trực tiếp về vai trò của IL-17A trong sự biểu hiện của enzyme CYP450. Sự hình thành của một số enzyme CYP450 bị ức chế bởi sự tăng các cytokine trong viêm mạn tính. Vì vậy, các chất chống viêm, chẳng hạn như Secukinumab ức chế IL-17A, có thể làm bình thường hóa nồng độ CYP450 kèm theo là giảm nồng độ tiếp xúc của các thuốc chuyển hóa qua CYP450 dùng đồng thời. Vì vậy, ảnh hưởng về lâm sàng trên các cơ chất CYP450 với chỉ số điều trị hẹp (khi liều thuốc được điều chỉnh tùy từng bệnh nhân, chẳng hạn như warfarin) có thể không được loại trừ. Khi bắt đầu điều trị Secukinumab ở những bệnh nhân đang dùng các loại thuốc này, cần cân nhắc việc theo dõi điều trị.

Thuốc này không nên pha trộn với các loại thuốc khác, ngoại trừ những thuốc được đề cập ở mục Hướng dẫn pha thuốc trước khi dùng ở phần Thận trọng đặc biệt về hủy thuốc và các xử lý khác.
Thận Trọng/Cảnh Báo : Thuốc này chỉ dùng theo sự kê đơn của bác sĩ.
Nhiễm khuẩn: Fraizeron có khả năng làm tăng nguy cơ nhiễm trùng. Trong các nghiên cứu lâm sàng, người ta thấy các nhiễm trùng xuất hiện trên các bệnh nhân dùng Fraizeron (xem mục Tác dụng ngoại ý). Hầu hết là các nhiễm khuẩn đường hô hấp trên, ở mức độ nhẹ hoặc trung bình như viêm mũi họng và không cần phải ngừng điều trị.
Do cơ chế tác dụng của Fraizeron, nhiễm Candida da-niêm mạc ở mức độ không nặng thường gặp hơn ở nhóm bệnh nhân dùng Fraizeron so với nhóm dùng giả dược (3,55 trên100 bệnh nhân-năm ở nhóm secukinumab 300mg so với 1 trên 100 bệnh nhân-năm ở nhóm dùng giả dược). (xem mục Tác dụng ngoại ý).
Cần thận trọng khi cân nhắc việc sử dụng Fraizeron ở những bệnh nhân có nhiễm trùng mạn tính hoặc tiền sử nhiễm trùng tái phát.
Bệnh nhân cần được hướng dẫn đi khám nếu có các dấu hiệu và triệu chứng gợi ý nhiễm trùng. Nếu tiến triển nhiễm trùng nặng, bệnh nhân cần được theo dõi chặt chẽ và không nên dùng Fraizeron cho đến khi nhiễm trùng được giải quyết.
Các nghiên cứu lâm sàng đã cho thấy thuốc không làm tăng nhạy cảm với lao. Tuy nhiên, không nên chỉ định Fraizeron cho những bệnh nhân nhiễm lao trong giai đoạn hoạt động. Ở những bệnh nhân nhiễm lao tiềm tàng, các thuốc điều trị lao cần được cân nhắc sử dụng trước khi bắt đầu Fraizeron.
Bệnh Crohn’s: Cần thận trọng khi dùng Fraizeron cho những bệnh nhân mắc bệnh Crohn’s. Trong thử nghiệm lâm sàng, đã quan sát thấy một số trường hợp bệnh nặng lên ở cả 2 nhóm dùng Fraizeron và giả dược. Những bệnh nhân đang điều trị bằng Fraizeron và có bệnh Crohn’s cần được theo dõi chặt chẽ.
Phản ứng quá mẫn: Nếu phản ứng phản vệ hoặc phản ứng dị ứng nghiêm trọng xảy ra, cần ngưng sử dụng Fraizeron ngay và tiến hành điều trị thích hợp.
Tiêm phòng: Không nên tiêm vắc xin sống đồng thời với dùng Fraizeron. Những bệnh nhân dùng Fraizeron có thể tiêm đồng thời vắc xin bất hoạt hoặc vắc xin chết. Trong một nghiên cứu, sau khi tiêm vắc xin não mô cầu và vắc xin cúm bất hoạt, một tỷ lệ tương đương những người tình nguyện khỏe mạnh được tiêm 150mg Secukinumab và tiêm giả dược, đã có đáp ứng miễn dịch đầy đủ, với nồng độ kháng thể kháng vắc xin não mô cầu và cúm tăng ít nhất 4 lần. Điều này cho thấy rằng, Fraizeron không ức chế đáp ứng miễn dịch dịch thể với vắc xin chống não mô cầu và cúm.
Thuốc ức chế miễn dịch đi kèm: Trong các nghiên cứu về vảy nến, tính an toàn và hiệu quả của Fraizeron khi phối hợp với các chất ức chế miễn dịch khác, bao gồm các chất sinh học hay quang trị liệu chưa được đánh giá (xem mục Tương tác thuốc).
Ảnh hưởng đến khả năng lái xe và vận hành máy móc: Fraizeron không ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng không đáng kể lên khả năng lái xe và vận hành máy móc.

Phụ nữ trong độ tuổi mang thai: Phụ nữ trong độ tuổi mang thai nên sử dụng biện pháp tránh thai hiệu quả trong suốt quá trình điều trị và ít nhất 20 tuần sau điều trị.
Phụ nữ mang thai: Không có đủ dữ liệu về việc sử dụng Secukinumab trên phụ nữ mang thai. Các nghiên cứu trên động vật không chỉ ra tác hại trực tiếp hay gián tiếp đối với phụ nữ mang thai, sự phát triển của phôi/bào thai, quá trình sinh nở và sự phát triển sau sinh (xem mục An toàn tiền lâm sàng). Để thận trọng thì tốt nhất nên tránh dùng Fraizeron cho phụ nữ mang thai.
Phụ nữ cho con bú: Vẫn chưa biết Secukinumab có được bài tiết qua sữa mẹ hay không. Các globulin miễn dịch được bài tiết qua sữa mẹ nhưng vẫn chưa biết Secukinumab có được hấp thu toàn thân sau khi tiêu hóa hay không. Vì những phản ứng bất lợi có thể có từ Secukinumab trong việc cho con bú sữa mẹ, quyết định nên dừng việc cho con bú trong và 20 tuần sau quá trình điều trị, hay dừng điều trị bằng Fraizeron cần được cân nhắc giữa lợi ích của việc cho con bú và việc điều trị Fraizeron cho bà mẹ.
Khả năng sinh sản: Tác dụng của Secukinumab lên sự sinh đẻ của người chưa được đánh giá. Những nghiên cứu trên động vật không chỉ ra tác hại trực tiếp và gián tiếp lên sự mang thai ở người (xem mục An toàn tiền lâm sàng).
Hiệu Ứng Phụ/Tác Dụng Ngoại Ý : Tóm tắt sơ lược về dữ liệu an toàn
Nghiên cứu lâm sàng: 4.498 bệnh nhân được điều trị bằng Fraizeron theo phương pháp mù và không mù, với các chỉ định khác nhau (vảy nến thể mảng và các bệnh tự miễn khác). Trong số đó, có 1.900 bệnh nhân được dùng Fraizeron trong ít nhất 1 năm đại diện cho 3.588 bệnh nhân-năm tiếp xúc với thuốc.
Bốn nghiên cứu pha III, đối chứng giả dược trên bệnh nhân vảy nến thể mảng đã được tính gộp để đánh giá tính an toàn của Fraizeron so với giả dược 12 tuần sau bắt đầu điều trị. Có tất cả 2.076 bệnh nhân được đánh giá (692 bệnh nhân dùng liều 150mg, 690 bệnh nhân dùng liều 300mg và 694 bệnh nhân dùng giả dược). Phản ứng bất lợi của thuốc (ADRs) thường gặp nhất là nhiễm khuẩn đường hô hấp trên (thường gặp nhất là viêm mũi họng, viêm mũi). Hầu hết các phản ứng đều ở mức độ nhẹ đến trung bình.
Danh mục các phản ứng bất lợi của thuốc: Các phản ứng bất lợi của thuốc (ADRs) từ các nghiên cứu lâm sàng (Bảng 5) được liệt kê theo phân loại theo hệ cơ quan MedDRA. Trong mỗi phân loại theo hệ cơ quan MedDRA, các phản ứng bất lợi của thuốc được sắp xếp theo mức độ thường gặp với phản ứng hay gặp nhất xếp đầu tiên. Trong mỗi nhóm mức độ thường gặp, các phản ứng bất lợi của thuốc được xếp theo thứ tự giảm dần mức độ trầm trọng. Hơn nữa, xếp loại các mức độ thường gặp tương ứng với mỗi phản ứng bất lợi dựa vào quy ước sau: rất phổ biến (≥1/10); phổ biến (≥1/100 đến <1/10); không phổ biến (≥1/1000 đến <1/100); hiếm (≥1/10000 đến <1/1000); rất hiếm (<1/10000), (xem bảng 5).

Image from Drug Label Content

Mô tả một số các phản ứng bất lợi chọn lọc
Nhiễm khuẩn: Trong giai đoạn đối chứng giả dược của các nghiên cứu lâm sang trên bệnh nhân vảy nến thể mảng (tổng số 1.382 bệnh nhân được điều trị với Fraizeron và 694 bệnh nhân được điều trị với giả dược trong 12 tuần), nhiễm khuẩn xuất hiện ở 28,7% bệnh nhân được điều trị bằng Fraizeron so với 18,9% bệnh nhân điều trị bằng giả dược. Các nhiễm khuẩn chính bao gồm nhiễm khuẩn đường hô hấp trên không nghiêm trọng, từ nhẹ đến trung bình, chẳng hạn như viêm mũi họng và không phải dừng điều trị. Số bệnh nhân bị nhiễm Candida da hoặc niêm mạc tăng, phù hợp với cơ chế hoạt động, nhưng các trường hợp này đều ở mức độ nhẹ hoặc trung bình, không nghiêm trọng, đáp ứng với điều trị chuẩn và không cần phải dừng điều trị. Các nhiễm khuẩn nghiêm trọng xảy ra ở 0,14% bệnh nhân điều trị bằng Fraizeron và 0,3% bệnh nhân điều trị bằng giả dược (xem mục Cảnh báo).
Tính trên trọn thời gian điều trị (3.430 bệnh nhân điều trị bằng Fraizeron, đa số trong 52 tuần), có 47,5% bệnh nhân nhóm Fraizeron (0,9 trên bệnh nhân-năm của giai đoạn theo dõi) được báo cáo là bị nhiễm trùng. Nhiễm trùng nặng được báo cáo là 1,2% bệnh nhân nhóm Fraizeron (0,015 trên bệnh nhân-năm của giai đoạn theo dõi).
Giảm bạch cầu đa nhân trung tính: Giảm bạch cầu đa nhân trung tính xuất hiện ở những bệnh nhân điều trị bằng Secukinumab nhiều hơn so với nhóm dùng giả dược, nhưng đa số các trường hợp đều nhẹ, thoáng qua và có thể hồi phục. Giảm bạch cầu đa nhân trung tính từ dưới 1,0 đến 0,5x109/l (CTCAE độ 3) đã được báo cáo ở 18 trên 3.430 bệnh nhân (0,5%) dùng Secukinumab, không phụ thuộc liều điều trị và không có mối liên quan về thời gian với các bệnh nhiễm khuẩn trên 15 trong số 18 bệnh nhân này. Không có trường hợp giảm bạch cầu đa nhân trung tính nào trầm trọng hơn được báo cáo. Các nhiễm khuẩn không nặng, thường đáp ứng với chăm sóc chuẩn và không cần phải ngừng điều trị Fraizeron được báo cáo ở 3 ca bệnh.
Phản ứng quá mẫn: Trong các nghiên cứu lâm sàng, mày đay và một trường hợp phản ứng phản vệ do Fraizeron cũng được báo cáo (xem mục Cảnh báo).
Tính sinh miễn dịch: Dưới 1% bệnh nhân được điều trị bằng Fraizeron xuất hiện các kháng thể kháng lại Secukinumab cho đến 52 tuần điều trị. Khoảng một nửa các kháng thể kháng thuốc phát sinh trong điều trị này bị trung hòa, nhưng không liên quan với sự giảm hiệu quả hay các bất thường về dược động học.
Liều Lượng & Cách Dùng : Tiêm dưới da (nếu có thể, các vị trí tiêm cần tránh các vùng da bị vảy nến).

Khởi đầu 300 mg (chia 2 lần tiêm) ở tuần 0, 1, 2 và 3; sau đó duy trì liều hằng tháng từ tuần thứ 4. Cân nhắc dừng điều trị ở bệnh nhân không đáp ứng sau hơn 16 tuần. Trẻ em < 18t.: độ an toàn và hiệu quả chưa được xác định

Fraizeron được dùng dưới sự chỉ định và giám sát của bác sỹ có kinh nghiệm trong chẩn đoán và điều trị vảy nến.
Liều dùng:
Liều khuyến cáo là 300 mg Secukinumab tiêm dưới da khởi đầu ở các tuần 0, 1, 2 và 3, sau đó duy trì liều hằng tháng từ tuần thứ 4. Mỗi liều 300 mg được chia làm 2 lần 150 mg tiêm dưới da.
Cân nhắc dừng điều trị ở những bệnh nhân không đáp ứng điều trị sau hơn 16 tuần. Một số bệnh nhân lúc đầu chỉ đáp ứng một phần, sau đó tiếp tục điều trị hơn 16 tuần có thể cải thiện.
Bệnh nhân cao tuổi (từ 65 tuổi trở lên): Không cần điều chỉnh liều (xem mục Dược động học).
Suy chức năng thận/gan: Fraizeron chưa được nghiên cứu trên quần thể những bệnh nhân này. Chưa có khuyến cáo về liều điều trị.
Bệnh nhân trẻ em: Độ an toàn và hiệu quả của Fraizeron ở trẻ em dưới 18 tuổi vẫn chưa được xác định. Chưa có dữ liệu liên quan.
Cách dùng:
Fraizeron được chỉ định tiêm dưới da. Nếu có thể, các vị trí tiêm cần tránh các vùng da bị vảy nến.
Bột pha dung dịch tiêm cần được pha ngay trước khi sử dụng. Xem mục Hướng dẫn pha thuốc trước khi dùng ở phần Thận trọng đặc biệt về hủy thuốc và các xử lý khác và Hướng dẫn sử dụng ở toa thuốc trong hộp sản phẩm. (xem bảng 3)

Image from Drug Label Content

Image from Drug Label Content
Quá Liều & Xử Lý : Trong các nghiên cứu lâm sàng, không có báo cáo trường hợp quá liều thuốc nào.
Trong các nghiên cứu lâm sàng, liều thuốc lên đến 30mg/kg (khoảng 2.000-3.000mg) được dùng qua tiêm tĩnh mạch mà không gây độc tính liên quan với liều. Trong trường hợp quá liều, bệnh nhân cần được theo dõi để phát hiện bất kỳ dấu hiệu, triệu chứng nào của phản ứng bất lợi, và các biện pháp điều trị toàn thân cần được tiến hành ngay.
Bảo Quản : Bảo quản ở nhiệt độ từ 2-8oC, bảo quản trong bao bì gốc, tránh ánh sáng. Thuốc được khuyến cáo dùng ngay lập tức sau khi hoàn nguyên. Dung dịch sau khi pha ổn định trong 24 giờ ở nhiệt độ 2-8oC.