Ranitidine là thuốc đối kháng thụ thể H2 histamin. Bốn thuốc đối kháng thụ thể H2 được dùng là cimetidine, ranitidine, famotidine và nizatidine. Các thuốc này có khả năng làm giảm 90% acid dịch vị tiết ra sau khi uống 1 liều điều trị, có tác dụng làm liền nhanh vết loét dạ dày tá tràng và ngăn chặn bệnh tái phát. Hơn nữa, chúng có vai trò quan trọng trong kiểm soát hội chứng Zollinger - Ellison và trạng thái tăng tiết dịch vị quá mức.
Ranitidine ức chế cạnh tranh với histamin ở thụ thể H2 của tế bào vách, làm giảm lượng acid dịch vị tiết ra cả ngày và đêm, cả trong tình trạng bị kích thích bởi thức ăn, insulin, amino acid, histamin hoặc pentagastrin. Ranitidine có tác dụng ức chế tiết acid dịch vị mạnh hơn cimetidine từ 3 - 13 lần nhưng tác dụng không mong muốn (ADR) lại ít hơn.
Về mặt bệnh sinh, trong những năm gần đây đã chứng minh được loét dạ dày tá tràng có liên quan đến sự có mặt của vi khuẩn Helicobacter pylori. Việc diệt vi khuẩn này là mục tiêu hàng đầu của điều trị. Ðể đạt được điều đó thường phối hợp ranitidin với 1 (phác đồ điều trị bằng 2 thuốc) hoặc 2 kháng sinh (phác đồ điều trị bằng 3 thuốc).
Sinh khả dụng của ranitidine vào khoảng 50%. Dùng đường uống, sau 2 - 3 giờ, nồng độ tối đa trong huyết tương sẽ đạt được cao nhất. Sự hấp thu hầu như không bị ảnh hưởng bởi thức ăn và các thuốc kháng a-xít. Ranitidine không bị chuyển hóa nhiều và không bị tương tác với nhiều thuốc như cimetidin. Ranitidine được thải trừ chủ yếu qua ống thận, thời gian bán hủy là 2 - 3 giờ, 60 - 70% liều uống và 93% liều tiêm tĩnh mạch được thải qua nước tiểu, còn lại được thải qua phân. Phân tích nước tiểu trong vòng 24 giờ đầu cho thấy 35% liều uống và 70% liều tiêm tĩnh mạch thải trừ dưới dạng không đổi.
Dùng đường tiêm bắp, nồng độ tối đa trong huyết tương đạt được nhanh hơn, trong vòng 15 phút sau khi tiêm.
Ranitidin được dùng để điều trị loét tá tràng, loét dạ dày lành tính, loét sau phẫu thuật, bệnh trào ngược thực quản, hội chứng Zollinger - Ellison và dùng trong các trường hợp cần thiết giảm tiết dịch vị và giảm tiết acid như: Phòng chảy máu dạ dày - ruột vì loét do stress ở người bệnh nặng, phòng chảy máu tái phát ở người bệnh đã bị loét dạ dày - tá tràng có xuất huyết và dự phòng trước khi gây mê toàn thân ở người bệnh có nguy cơ hít phải acid (hội chứng Mendelson), đặc biệt ở người bệnh mang thai đang chuyển dạ.
Ranitidin còn được chỉ định dùng trong điều trị triệu chứng khó tiêu.
Thận trọng khi dùng thuốc cho các đối tượng sau: Người bệnh suy thận cần giảm liều; người bệnh suy gan nặng, người bệnh rối loạn chuyển hóa porphyrin cấp, có nguy cơ tăng tác dụng không mong muốn và nguy cơ quá liều; người bệnh có bệnh tim có thể bị nguy cơ chậm nhịp tim.
Viên ranitidin sủi bọt trong nước có chứa natri, dễ làm quá tải natri nên cần chú ý ở người bệnh tăng huyết áp, suy tim, suy thận.
Điều trị với các kháng histamin H2 có thể che lấp các triệu chứng của ung thư dạ dày và làm chậm chẩn đoán bệnh này. Do đó khi có loét dạ dày cần loại trừ khả năng bị ung thư trước khi điều trị bằng ranitidin.
Ranitidin được đào thải qua thận, nên khi người bệnh bị suy thận thì nồng độ thuốc trong huyết tương tăng cao, vì vậy phải cho người bệnh này tiêm những liều thấp, 25mg, hoặc chỉ uống 1 liều 500mg vào các buổi tối, trong 4 - 8 tuần.
Tuy hiếm nhưng cũng có những trường hợp khi tiêm nhanh ranitidin có thể gây nhịp tim chậm và thường xảy ra ở những người bệnh có những yếu tố dễ gây rối loạn nhịp tim.
Cần tránh dùng ranitidin cho người có tiền sử rối loạn chuyển hóa porphyrin.
Cách dùng:
Có thể dùng lúc đói hoặc no.
Ngày dùng 2 lần, mỗi lần 150mg vào sáng và tối hoặc 1 lần 300mg vào tối. Người bệnh loét dạ dày lành tính và loét tá tràng uống từ 4-8 tuần; người bệnh viêm dạ dày mạn tính uống tới 6 tuần; người bệnh loét do dùng thuốc kháng viêm không steroid uống 8 tuần; người bệnh loét tá tràng có thể uống liều 300mg x 2 lần/ ngày trong 4 tuần để nhanh lành vết loét.
Trẻ em: Bị loét dạ dày tá tràng, liều 2 - 4mg/ kg thể trọng x 2 lần/ ngày, tối đa uống 300mg/ ngày.
Liều dùng duy trì là 150mg/ ngày, uống vào đêm.
Loét dạ dày tá tràng có vi khuẩn Helicobacter pylori: Áp dụng phác đồ 2 thuốc hoặc 3 thuốc dưới đây trong 2 tuần lễ, sau đó dùng thêm Ranitidine 2 tuần nữa.
Chú ý: Phác đồ 3 thuốc diệt H. pylori hiệu quả hơn phác đồ 2 thuốc.
Ðề phòng loét dạ dày tá tràng do dùng thuốc kháng viêm không steroid: Uống liều 150mgx 2 lần/ ngày.
Ðiều trị trào ngược dạ dày, thực quản: Uống 150mg x 2 lần/ ngày hoặc 300mg, 1 lần/ ngày vào đêm, trong thời gian 8-12 tuần. Khi đã khỏi, để điều trị duy trì dài ngày, uống 150mg x 2 lần/ ngày.Ðiều trị hội chứng Zollinger - Ellison: Uống 150mg x 3 lần/ ngày. Có thể uống đến 6g/ ngày, chia làm nhiều lần.
Ðể giảm a-xít dạ dày (đề phòng hít phải a-xít ) trong sản khoa: Cho uống 150mg ngay lúc chuyển dạ, sau đó cứ cách 6 giờ uống 1 lần; trong phẫu thuật: tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch chậm 1 liều 50mg (pha loãng trong 20ml, tiêm ít nhất trong 2 phút) trước khi gây mê 45 - 60 phút hoặc cho uống liều 150mg trước khi gây mê 2 giờ và nếu có thể, uống 150mg cả vào tối hôm trước.
Tiêm bắp thịt: Tiêm 50mg (trong 2ml dung dịch nước); cứ 6 - 8 giờ tiêm 1 lần.
Tiêm tĩnh mạch chậm: Tiêm 50mg, hòa tan thành 20ml dung dịch, tiêm chậm trong tối thiểu 2 phút; cứ 6 - 8 giờ có thể tiêm nhắc lại.
Truyền tĩnh mạch: Liều 25mg /giờ, truyền trong 2 giờ; cứ 6 - 8 giờ có thể truyền nhắc lại.
Ðề phòng chảy máu khi loét dạ dày do stress ở người bệnh nặng: Ðầu tiên tiêm tĩnh mạch chậm liều 50mg như trên, rồi truyền liên tục liều 125 - 250mcg/ kg/ giờ. Sau đó có thể cho uống ngày 2 lần, mỗi lần 150mg khi người bệnh đã ăn được.